Giọt mật giữa rừng xanh huyện Kbang
Ảnh minh họa. |
Nói rồi Đinh Ngol rẽ vào rừng lấy vội một nắm lá bỏ vào miệng nhai
ngấu nghiến xong nhổ ra tay rồi xoa lên khắp mặt và cơ thể. Anh cho biết, đó là
thứ lá khắc tinh với ong, khiến chúng không dám tấn công mình. Tiếp đó, Đinh
Ngol cắm thêm xung quanh người những cành lá rừng như ngụy trang rồi bước tới
nhẹ nhàng tháo chốt mở cửa bộng ong. Bên trong, một đàn ong đang bâu vào nhau
thành khối, chen lấn chật bộng cây. Anh kéo nhẹ nhàng một cầu ong bằng thanh
tre mang theo bánh mật ra ngoài, đàn ong bu theo tung cánh bay phủ hết cả mặt,
đầu anh. Lúc này, anh vẫn thản nhiên gỡ những bánh mật vàng ươm bỏ vào trong
chiếc gùi đã lót sẵn lá và tấm ni lông, đồng thời không quên bắt từng con ong
non chưa biết bay bỏ trở lại tổ. Vừa quan sát, tôi vừa thầm thán phục khi anh
cẩn thận lấy mật không để đàn ong bị náo loạn, không những vậy anh còn chừa lại
cho chúng một ít bánh mật, tạo cái ăn vào mùa hoa rừng cạn kiệt để ong sống và
phát triển đến mùa sau. Lấy thêm vài bánh nữa thì anh đóng nắp lại. Những bánh
mật vàng ươm nằm trong gùi rỉ ra giọt mật keo quánh. Tôi nhón tay bẻ lấy một
miếng đưa vào miệng, vị ngọt thanh, keo đặc dính vào đầu lưỡi tỏa ra mùi hương
thơm phức đặc trưng của hoa rừng.
Cuộc hành trình của chúng tôi lại tiếp tục. Vừa đi, anh Ngol vừa
trò chuyện: Cây pơrang là cách gọi của người Bahnar, còn người Kinh gọi là cây
dó. Đây là một loại cây thân gỗ mềm, không nhiều giá trị kinh tế, có cây to cỡ
2-3 người ôm. Trong thân mỗi cây dó thường có những bộng kiến đục khoét làm tổ,
được con người tận dụng khoét rộng ra thêm để nuôi ong. Muốn dẫn ong về nuôi,
phải theo dõi đàn ong uống nước ở bờ suối, hễ thấy ong bay ngang là biết tổ
cách đó không xa. Ong bay hướng nào thì tìm tổ theo hướng đó. Một kinh nghiệm
nữa là quan sát các tảng đá ở khe suối, nếu có màu vàng lấm tấm (nước tiểu của
ong) thì khu vực đó chắc chắn sẽ có tổ ong. Khi tìm thấy bộng ong thì phải tìm
bằng được con ong chúa bắt bỏ vào một ống nứa nhỏ, nút kín miệng bằng lá cây
nhưng không quên khoét lỗ xung quanh cho ong thở, sau đó bỏ vào ống tre lớn hay
cây gỗ rỗng ruột để đàn ong thợ bâu vào. Khi đó, ta bịt miệng 2 đầu mang về thả
vào bộng cây của mình. Khoảng vài ngày thì tháo nút, đồng thời bỏ vào đó một ít
bánh mật để làm thức ăn là ong tự ở và sinh sản thành đàn.
Mật ong rừng được lấy vào khoảng tháng 6, tháng 7 là tốt nhất vì
thời điểm này mật đã chín và có màu vàng sẫm nên chất lượng tốt hơn lúc đầu
mùa. Anh Ngol giải thích thêm: Những người đi lấy mật không bao giờ sát hại
gấu, loài động vật tranh giành mật ong với người. Khi gặp nó, chỉ cần rung cây
hét la cho nó sợ chạy.
Đang đi anh Ngol bỗng sững lại chỉ về hướng bờ suối, nơi có một
lán trại lợp tấm ni lông màu xanh. Đó là lán của những người tìm trầm. Anh Ngol
lách nhanh về hướng có cây pơrang giữa khu rừng thì sững sờ khi thấy trước mắt
là một khoảng rừng trống hoác, cây xung quanh rạp đổ. Một cây pơrang 3 người ôm
nằm chỏng chơ, thân bị băm vằm, dăm gỗ vương vãi khắp một vùng. Anh bước nhanh
lại vào chỗ gốc cây, nhìn bộng ong bị phá tan hoang. Buồn bã, anh cúi nhặt
những con ong non đang luyến tiếc hút những giọt mật rơi trên lá khô. Trên đầu
anh, đàn ong mất tổ đang quần đảo. Anh đưa tay vuốt dọc thân gỗ và nói trong
luyến tiếc: “Ôi, họ chặt cây để tìm trầm. Cả rừng này rất nhiều cây bị đốn hạ.
Từ đời ông bà đến đời mình chỉ biết nuôi ong lấy mật thôi, cũng nhờ mật ong mà
đổi được gạo, thực phẩm nuôi sống gia đình vào những ngày giáp hạt. Mật còn
giúp con trẻ thiếu sữa, người già thiếu đường. Bọn họ ác quá, phá hết
rồi!”.
Nói rồi anh Ngol ngồi ngay gốc cây khóc, tiếng khóc tỉ tê, kể lể
như vừa mất đi một người thân thiết nhất. Đàn ong cứ quần đảo trên bầu trời,
thi thoảng tụ lại rồi giãn ra, có lúc lại sà xuống bâu quanh bộng cây pơrang,
như nói lời từ giã. Rồi chúng bay vút vào cánh rừng xanh, bỏ lại đôi mắt thẫn
thờ nhìn theo anh Đinh Ngol.
Hơn 30 năm tôi không có dịp trở lại rừng, nhưng ánh mắt và tiếng
khóc của anh Ngol vẫn mồn một trong ký ức tôi mỗi khi nhớ về cánh rừng năm ấy.
File đính kèm
51.pdf73.pdf
81.pdf
118.pdf
137.pdf
162.pdf
192.pdf
242.pdf
243.pdf
244.pdf
245.pdf
246.pdf
247.pdf
304.pdf
307.pdf
308.pdf
337.pdf
340.pdf
647 QĐ-UBND.signed.pdf
690.pdf